Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: Chương trình 1719 giai đoạn I đạt những thành tựu quan trọng, tạo nền tảng cho sự phát triển "cách mạng" ở giai đoạn II
3 giờ trước | Lượt xem: 86 In bài viết |Phát biểu tổng kết chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Đào Ngọc Dung, Ủy viên Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia, đã đánh giá những kết quả quan trọng đạt được trong giai đoạn 2021-2025, đồng thời nhận định những khó khăn và định hướng cho giai đoạn tiếp theo.
Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (Chương trình 1719) là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của các địa phương vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, góp phần giảm nghèo bền vững và thu hẹp khoảng cách phát triển.
Theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, sau gần 5 năm triển khai, chương trình đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, làm thay đổi đáng kể diện mạo và đời sống của người dân.
Chương trình đã góp phần vào mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững, đặc biệt là ở những vùng được xem là "lõi nghèo" và có nhiều người nghèo nhất cả nước, với tỉ lệ hộ nghèo giảm trung bình 3,4% mỗi năm.
Tổng cộng, 42.567 căn nhà tạm và nhà dột nát đã được xóa bỏ trên các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn với tổng kinh phí hỗ trợ là 1.702,68 tỷ đồng, vượt 230% kế hoạch được giao. Điều này đã giúp Việt Nam hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm, nhà dột nát trước thời hạn 5 năm.
Chương trình cũng đã hỗ trợ trực tiếp và giải quyết các nhu cầu thiết yếu của người dân, bao gồm hỗ trợ đất ở cho 10.549 hộ, đất sản xuất cho 13.387 hộ và nhà ở cho 42.567 hộ.
Đã có 54.899 hộ được hỗ trợ chuyển đổi nghề, 479.358 hộ được hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán, và 809 công trình nước sinh hoạt tập trung đã được xây dựng.
Về giáo dục, 4.752 lớp học xóa mù chữ đã được tổ chức với sự tham gia của 95.033 người dân.
Về sản xuất, đã có 403 dự án hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị và 383 dự án, mô hình chăn nuôi, trồng trọt với sự tham gia của 36.654 hộ.
Ngoài ra, 115.575 người lao động đã được hỗ trợ đào tạo nghề và tìm kiếm việc làm.
Chương trình cũng đã khôi phục và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời huy động vai trò của phụ nữ và trẻ em gái trong phát triển kinh tế và cộng đồng.
Sau hơn 3 năm thực hiện, 6 trong số 9 nhóm mục tiêu do Quốc hội giao tại Nghị quyết số 120/2020/QH14 đã hoàn thành hoặc vượt tiến độ.
Các mục tiêu đã hoàn thành bao gồm: giảm tỉ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số bình quân 3,4% (vượt mục tiêu 3%) , tăng thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số đạt 43,4 triệu đồng, tăng 3,1 lần so với năm 2020 (vượt mục tiêu tăng trên 2 lần) , và mục tiêu về giáo dục.
Các mục tiêu khác bao gồm mục tiêu về đào tạo nghề cho lao động trong độ tuổi đạt 54,8% (vượt mục tiêu 50%) , mục tiêu về bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống , và mục tiêu tăng cường y tế.
Hai trong số những mục tiêu này là "bản lề" và "nền tảng" cho sự phát triển kinh tế-xã hội, đó là tỉ lệ giảm nghèo và thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhận định.
Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo nhận định, Chương trình đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững, đặc biệt là ở những vùng được coi là "lõi nghèo" của đất nước
Bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận, Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo cũng nhìn nhận một số hạn chế và thách thức trong quá trình thực hiện Chương trình.
Đây là một chương trình đặc thù, quy mô lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực và triển khai trên những địa bàn khó khăn, phức tạp nhất cả nước. Giai đoạn I của chương trình vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bao gồm việc thiết kế phân tán nhiều dự án và tiểu dự án, do nhiều bộ, ngành quản lý, gây khó khăn trong quá trình triển khai.
Công tác chuẩn bị đầu tư của một số bộ, ngành và địa phương chưa sát với thực tế, phải điều chỉnh nhiều lần, ảnh hưởng đến tiến độ và giải ngân vốn.
Về mặt tổ chức, bộ máy triển khai còn lúng túng, việc phân cấp và phân quyền chưa triệt để, làm hạn chế hiệu quả thực hiện.
Ngoài ra, có 3 trong số 9 nhóm mục tiêu dự kiến không hoàn thành vào cuối năm 2025, bao gồm: cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, số xã và thôn thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, và công tác định canh, định cư và giải quyết thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Công tác chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế, và việc báo cáo thông tin từ một số bộ, cơ quan, và địa phương chưa nghiêm túc, ảnh hưởng đến tiến độ chung của chương trình.
Đại biểu tham dự Hội nghị tại điểm cầu Chính phủ
Đối với giai đoạn II của Chương trình, từ năm 2026-2030, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhấn mạnh, cần có sự thay đổi mạnh mẽ mang tính cách mạng.
Chương trình cần kiên định bám sát các chủ trương đã được phê duyệt, kiên trì thực hiện các mục tiêu của Quốc hội, và kiên quyết hành động sáng tạo để giải quyết 5 vấn đề cấp bách nhất: điều kiện cơ sở hạ tầng, chất lượng nhân lực, kinh tế xã hội chậm phát triển, tiếp cận dịch vụ khó khăn, và tỉ lệ hộ nghèo cao.
Các dự án và tiểu dự án cần được thiết kế ngắn gọn, cụ thể, dễ hiểu, tập trung vào 5 vấn đề chính: hoàn thiện cơ sở hạ tầng thiết yếu, phát triển sản xuất và tạo việc làm bền vững, cung cấp đầy đủ dịch vụ công về y tế và giáo dục, ưu tiên đầu tư cho một số nhóm dân tộc thiểu số khó khăn, và đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với công tác tuyên truyền.
Về cơ chế quản lý, giai đoạn II sẽ tuân theo nguyên tắc thu gọn đầu mối, phân công nhiệm vụ rõ ràng và trao toàn quyền cho địa phương chủ động lập kế hoạch, huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện. Sẽ tiếp tục huy động toàn bộ hệ thống chính trị với quyết tâm cao, phân cấp tối đa cho địa phương, và áp dụng nguyên tắc "địa phương quyết, địa phương làm và địa phương chịu trách nhiệm".
Xuân Thường - Thuần Linh